Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2015

Tóm lược bầu cử ở Mỹ (Sách)

Giới thiệu

Bầu cử tự do và công bằng là yếu tố quyết định của bất cứ nền dân chủ nào, đồng thời là yếu tố cơ bản để thực hiện việc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình.

Việc cử tri bầu chọn các đại diện tức là bầu lên các nhà lãnh đạo, những người sẽ định hình tương lai xã hội của họ. Đó là lý do tại sao bầu cử lại trao quyền năng cho người dân thường: bầu cử cho phép họ tác động tới các chính sách của chính phủ trong tương lai, và từ đó tác động tới tương lai của chính họ.

Mỹ là một nền dân chủ đại diện kể từ khi Hiến pháp được thông qua năm 1787, mặc dù truyền thống bầu cử đã có từ thời kỳ thuộc địa và bắt nguồn từ lịch sử nước Anh. Cuốn sách này bàn về bản chất của tiến trình bầu cử Mỹ đương đại và cách thức vận hành của các cuộc bầu cử ở cấp liên bang, bang và địa phương. Mặc dù rất phức tạp và đôi khi còn khó hiểu, song tiến trình bầu cử đã phát triển để đảm bảo mọi nam giới và phụ nữ là công dân Mỹ, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử.


Các cuộc bầu cử ở Mỹ


Ở Mỹ, các cuộc bầu cử chọn người nắm giữ một số vị trí trong chính quyền liên bang và hầu hết các vị trí trong chính quyền bang và địa phương diễn ra vào các năm chẵn. Một số bang và địa phương tổ chức bầu cử vào các năm lẻ.

Do vậy, cứ bốn năm một lần, người Mỹ lại đi bầu tổng thống và phó tổng thống. Cứ hai năm một lần, người Mỹ đi bầu lại tất cả 435 thành viên Hạ viện và khoảng 1/3 trong số 100 thành viên của Thượng viện. Nhiệm kỳ của các thượng nghị sĩ kéo dài 6 năm.

Hệ thống chính quyền liên bang Mỹ rất phức tạp. Chính quyền trung ương là trung tâm, nhưng các chính quyền bang và địa phương cũng có thẩm quyền đối với những vấn đề không thuộc về trách nhiệm của chính phủ liên bang. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, các chính quyền bang và địa phương khá độc lập về cách thức tổ chức bầu cử. Tuy nhiên, các cuộc bầu cử do họ tổ chức rất thường xuyên, có tính chất quyết định và được điều hành hiệu quả.

Các hình thức bầu cử ở Mỹ

Có hai hình thức bầu cử cơ bản: bầu cử sơ bộ và tổng tuyển cử. Các cuộc bầu cử sơ bộ được tổ chức trước khi diễn ra tổng tuyển cử để quyết định ứng cử viên của đảng tham gia tổng tuyển cử. Các ứng cử viên giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ tiếp tục đại diện cho đảng đó trong cuộc tổng tuyển cử (mặc dù còn phải tiến hành một số bước nữa trước khi các đảng cho phép họ tham gia).

Từ đầu thế kỷ XX, bầu cử sơ bộ là hình thức bầu cử chủ yếu để chọn ra các ứng cử viên của đảng. Mặc dù vẫn có ngoại lệ, nhưng thông thường người giành chiến thắng trong bầu cử sơ bộ sẽ là ứng cử viên được đảng đó chỉ định tham gia tổng tuyển cử. ở một số bang, các ứng cử viên được lựa chọn tại các đại hội chỉ định ứng cử viên của bang hoặc địa phương, chứ không thông qua bầu cử sơ bộ. Việc chọn ứng cử viên theo hình thức này có thể do truyền thống của các bang đó hoặc do lựa chọn của các đảng.

Khi các cuộc bầu cử sơ bộ hoặc đại hội chỉ định ứng cử viên kết thúc, tổng tuyển cử sẽ được tiến hành để quyết định ai là người được bầu chọn nắm giữ chức vụ. Trong cuộc tổng tuyển cử, dựa trên danh sách các ứng cử viên trên lá phiếu cử tri sẽ đưa ra quyết định cuối cùng. Trên phiếu bầu phổ thông có thể có cả tên của các ứng cử viên độc lập (những người không thuộc chính đảng nào). Để có tên trong danh sách này, ứng cử viên độc lập trình lên một kiến nghị có đủ số lượng chữ ký ủng hộ theo yêu cầu, chứ không theo phương thức bầu cử sơ bộ truyền thống. Hơn thế nữa, ở một số bang, trên phiếu bầu có thể còn chỗ để điền vào đó tên của các ứng cử viên không được các đảng chỉ định và cũng không đủ điều kiện theo hình thức trình đơn kiến nghị. Những ứng cử viên đó được coi là ứng cử viên tự chỉ định và đôi khi họ được bầu lên để nắm giữ các chức vụ công.

ở Mỹ, bầu cử không chỉ liên quan đến việc chọn người nắm giữ các chức vụ công. Thực vậy, ở một số bang và địa phương, trên phiếu bầu có khi còn có các vấn đề liên quan đến chính sách công để lấy ý kiến cử tri chấp thuận hoặc không chấp thuận. Những vấn đề mà cơ quan lập pháp bang hoặc hội đồng địa phương đưa ra lấy ý kiến cử tri - trưng cầu dân ý - và những vấn đề do người dân kiến nghị trên phiếu bầu - đề xuất - thường liên quan đến các vấn đề trái phiếu (chấp thuận việc vay tiền để đầu tư cho các dự án công cộng) và những yêu cầu khác hoặc chỉ trích chính phủ. Trong những thập kỷ gần đây, kiến nghị trên phiếu bầu có tác động lớn, đặc biệt đối với ngân sách và chính sách của các bang, đáng chú ý nhất là tác động đối với hệ thống giáo dục bang California.

Bên cạnh các cuộc bầu cử cấp liên bang, bang và địa phương được tổ chức vào các năm chẵn, một số chính quyền bang và địa phương còn tổ chức các cuộc bầu cử không theo thông lệ vào các năm lẻ. Nhiều địa phương còn quy định tổ chức các cuộc bầu cử đặc biệt, có thể được tổ chức bất cứ lúc nào vì một mục đích cụ thể, chẳng hạn như bổ nhiệm vào một vị trí bất ngờ bị trống trong cơ quan.

Bầu cử tổng thống

Cứ bốn năm một lần, cuộc bầu cử tổng thống Mỹ diễn ra vào ngày thứ ba đầu tiên sau ngày thứ hai đầu tiên của tháng 11. Trước đó, các bang tổ chức các cuộc bầu cử sơ bộ hoặc tiến hành họp kín để chọn ra các đại biểu đi dự đại hội chỉ định ứng cử viên toàn quốc. Các cuộc bầu cử sơ bộ và họp kín tại từng bang diễn ra từ tháng 1 đến tháng 6, sau đó là các đại hội toàn quốc diễn ra vào các tháng 7, 8 và 9.

Từ những năm 1970, ngay trước khi diễn ra đại hội đảng người ta đã biết ai là ứng cử viên tổng thống - những người cuối cùng được các chính đảng chỉ định - vì họ đã giành được sự ủng hộ của đa số đại biểu trước khi mùa bầu cử sơ bộ và họp kín kết thúc. Do vậy, các đại hội đảng nhìn chung chỉ là các sự kiện mang tính hình thức mà thôi. Điểm nhấn của các đại hội đảng gồm một bài phát biểu dẫn đề của lãnh đạo đảng, công bố ứng cử viên phó tổng thống của người được chỉ định, đoàn đại biểu các bang điểm phiếu cử tri, và thông qua cương lĩnh chính trị của đảng (văn kiện khẳng định quan điểm của đảng đó về các vấn đề).

Là một sự kiện chính trị được phát trên truyền hình và là điểm khởi đầu của chiến dịch tổng tuyển cử, nên đại hội đảng là cơ hội để quảng bá cho ứng cử viên của đảng và xác định những điểm khác biệt với đối thủ.

Tỉ lệ cử tri đủ điều kiện bỏ phiếu trong mỗi cuộc bầu cử là khác nhau, nhưng tổng số cử tri đi bầu nhìn chung - kể cả trong các cuộc bầu cử tổng thống - đều thấp hơn so với ở hầu hết các nền dân chủ khác. Từ năm 1960, số cử tri đi bầu nhìn chung giảm từ 64% (năm 1960) xuống trên 50% (năm 1996), mặc dù con số này lại tăng lên hơn 60% trong hai cuộc bầu cử gần đây nhất. Có một số lý do khiến số cử tri đi bầu ở Mỹ tương đối thấp. Trái với một số nền dân chủ khác, ở Mỹ một cử tri phải tự đăng ký để đủ điều kiện bỏ phiếu. Quá trình đăng ký cử tri ở các bang tương đối khác nhau. Một lý do khác là việc bỏ phiếu là tự nguyện, chứ không bắt buộc, điều này giống một số nước. Do có rất nhiều cuộc bầu cử để chọn ra số người nắm giữ khoảng hơn một triệu vị trí trên cả nước, nên có thể việc cử tri cảm thấy mệt mỏi cũng dẫn đến số lượng đi bầu thấp.

Thống kê cho thấy số cử tri đi bầu giảm khi công chúng thấy tình hình chính trị ổn định, hoặc khi các cuộc thăm dò cho thấy một ứng cử viên chắc chắn sẽ thắng cử. Ngược lại số cử tri đi bầu có thể tăng khi cuộc chạy đua giữa các ứng cử viên rất sít sao hoặc trên phiếu bầu có những vấn đề gây tranh cãi.

Yêu cầu đối với ứng cử viên

Quy định đối với từng vị trí được bầu lên ở cấp liên bang khác nhau, được nêu rõ trong điều I và II của Hiến pháp Mỹ. Ví dụ, ứng cử viên tổng thống phải là một công dân Mỹ, ít nhất 35 tuổi, và cư trú tại Mỹ ít nhất là 14 năm. Phó tổng thống cũng phải đáp ứng những yêu cầu tương tự. Theo Điều bổ sung sửa đổi thứ 12 của Hiến pháp Mỹ, phó tổng thống không được là công dân của cùng một bang với tổng thống.

Các ứng cử viên chạy đua vào Hạ viện ít nhất phải đủ 25 tuổi, là công dân Mỹ được ít nhất 7 năm và là người cư trú hợp pháp tại bang mà họ muốn đại diện tại Quốc hội. Các ứng cử viên vào Thượng viện ít nhất phải 30 tuổi, là công dân Mỹ được ít nhất 9 năm và là người cư trú hợp pháp tại bang mà họ muốn đại diện. Các ứng cử viên vào các chức vụ ở bang và địa phương phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định của các bang và địa phương đó.

Điều bổ sung sửa đổi thứ 22 của Hiến pháp Mỹ được phê chuẩn năm 1951 cấm tổng thống Mỹ không được nắm quyền quá hai nhiệm kỳ. Tuy nhiên, Hiến pháp không áp đặt thời hạn đối với hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ mặc dù nhiều nhóm chính trị trong nhiều năm đã vận động để thông qua những quy định về thời hạn đó. Thời hạn nhiệm kỳ đối với các quan chức bang và địa phương, nếu có, được quy định trong các hiến pháp bang và nghị định của địa phương.

 Vai trò của các đảng phái chính trị


Khi những người sáng lập nền cộng hòa Mỹ soạn thảo và phê chuẩn Hiến pháp Mỹ năm 1787, họ không trao cho các chính đảng một vai trò nào cả. Thực vậy, bằng cách xây dựng nhiều quy định hiến pháp như phân chia quyền lực hành pháp, lập pháp và tư pháp; xây dựng chế độ liên bang; và bầu tổng thống gián tiếp thông qua cử tri đoàn (xem dưới đây) - họ muốn nền cộng hòa mới không chịu tác động của các đảng phái chính trị.

Bất chấp ý định của những người sáng lập nền cộng hòa, nước Mỹ năm 1800 trở thành quốc gia đầu tiên phát triển các chính đảng non trẻ trên toàn quốc nhằm thực hiện việc chuyển giao quyền hành pháp từ đảng này sang đảng khác thông qua bầu cử. Sự phát triển và mở rộng các đảng phái chính trị sau đó gắn kết chặt chẽ với việc mở rộng quyền bầu cử. Trong thời kỳ đầu của nền cộng hòa, chỉ những người đàn ông có sở hữu tài sản mới được đi bầu cử. Tuy nhiên, quy định đó bắt đầu được nới lỏng vào đầu thế kỷ XIX do làn sóng nhập cư, sự phát triển của các đô thị và các lực lượng dân chủ hóa khác, chẳng hạn như quá trình mở rộng đất nước về phía tây. Trải qua nhiều thập kỷ, quyền bầu cử đã được mở rộng cho nhiều người hơn nữa vì những quy định về quyền sở hữu tài sản, chủng tộc và giới tính đã bị bãi bỏ. Khi thành phần cử tri được mở rộng thì các đảng chính trị mở ra để vận động số lượng lớn cử tri như một phương tiện kiểm soát chính trị. Các đảng chính trị đã được thể chế hóa để thực hiện nhiệm vụ cơ bản này. Do vậy, các đảng ở Mỹ xuất hiện như một phần của quá trình mở rộng dân chủ và vào đầu những năm 1830, các đảng phái chính trị đã được củng cố vững chắc và đầy quyền lực.

Ngày nay, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa - cả hai đều kế thừa các đảng tiền nhiệm từ thế kỷ XVIII và XIX - chi phối tiến trình chính trị. Trừ những trường hợp ngoại lệ hiếm hoi, hai chính đảng này thay nhau nắm giữ chức tổng thống, các chức vụ trong Quốc hội, thống đốc và cơ quan lập pháp bang. Ví dụ, từ năm 1852 các tổng thống đều là người của Đảng Cộng hòa hoặc Đảng Dân chủ, và trong thời kỳ sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, tỉ lệ phiếu phổ thông bầu tổng thống của hai chính đảng trung bình là gần 95%. Trong số 50 bang, hiếm khi có bang nào mà thống đốc không phải là người của Đảng Dân chủ hoặc Đảng Cộng hòa. Rất ít thành viên Quốc hội hoặc thành viên các cơ quan lập pháp bang là người của đảng thứ ba hoặc thành viên độc lập.

Trong những thập kỷ gần đây, ngày càng có nhiều cử tri tự nhận mình là các cử tri độc lập và họ được phép đăng ký bỏ phiếu ở nhiều bang. Tuy nhiên, theo các cuộc thăm dò dư luận, ngay cả những người nói rằng họ là những cử tri độc lập nhìn chung vẫn có xu hướng ủng hộ đảng này hoặc đảng kia.

Tuy nhiên, ở cấp địa phương vẫn có trường hợp ngoại lệ, cụ thể là ở các thành phố và thị trấn nhỏ, vì ở đó các ứng cử viên có thể không phải tuyên bố họ thuộc đảng nào hoặc họ có thể tham gia chạy đua tranh cử với những người cùng chung chí hướng theo một sáng kiến cụ thể của địa phương như xây dựng lại khu trung tâm thành phố hoặc xây dựng trường học.

Mặc dù hai chính đảng này tổ chức và chi phối chính quyền ở cấp trung ương, bang và địa phương, nhưng về ý thức hệ họ lại không gắn kết và có hệ thống bằng các đảng phái ở các nền dân chủ khác. Khả năng các chính đảng thích nghi với những diễn biến chính trị của đất nước dẫn đến sự chi phối mang tính thực dụng của họ đối với tiến trình chính trị.

Tại sao lại hình thành hệ thống hai đảng?

Như đã đề cập ở trên, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa đã chi phối nền chính trị bầu cử từ những năm 1860. Thành tích không gì sánh được này của cả hai đảng - liên tục chi phối nền chính trị bầu cử của một quốc gia - phản ánh những khía cạnh mang tính cấu trúc của hệ thống chính trị Mỹ cũng như những nét đặc thù của các đảng.

Quy định đối với việc bầu thành viên các cơ quan lập pháp bang và liên bang ở Mỹ là hệ thống khu vực bầu cử một thành viên, theo đó ứng cử viên nhận được đa số phiếu bầu (tức là, số lượng phiếu bầu lớn nhất ở khu vực bầu cử cụ thể) sẽ thắng cử. Mặc dù ít bang yêu cầu ứng cử viên phải giành được đa số phiếu bầu trong cuộc bầu cử, nhưng hầu hết những người nắm giữ chức vụ đều được bầu lên với đa số tương đối.

Không giống với hệ thống tính theo tỉ lệ phổ biến ở nhiều nền dân chủ, quy định khu vực bầu cử một thành viên cho phép chỉ một đảng giành thắng lợi ở một khu vực bầu cử cụ thể. Vì vậy, hệ thống khu vực bầu cử một thành viên tạo ra động lực hình thành các đảng có cơ sở rộng rãi trên toàn quốc, với kỹ năng quản lý hiệu quả, có các nguồn lực tài chính và sức cuốn hút để giành được đa số tại các khu vực bầu cử Quốc hội trên cả nước. Theo hệ thống này, ứng cử viên của các đảng nhỏ và đảng thứ ba bị bất lợi. Những đảng có nguồn lực tài chính ít ỏi và không có được sự ủng hộ của công chúng hầu như không có được đại diện nào. Do vậy, các đảng mới khó mà có được mức độ đại diện theo tỉ lệ và giành được sức mạnh trên toàn quốc, vì quy định người thắng được tất trong hệ thống bầu cử Mỹ. Tại sao lại là hai chứ không phải ba đảng trên toàn quốc có nguồn tài chính dồi dào? Một phần là vì người ta cho rằng hai đảng đã mang lại cho cử tri đủ sự lựa chọn, một phần là vì về phương diện lịch sử người Mỹ không thích những thái cực chính trị và một phần là vì cả hai đảng đều tiếp thu những ý tưởng mới (xem dưới đây).

Cử tri đoàn

Còn một động lực nữa thúc đẩy sự hình thành hệ thống hai đảng, đó là hệ thống Cử tri đoàn bầu chọn tổng thống. Theo hệ thống Cử tri đoàn, về kỹ thuật, người Mỹ không bỏ phiếu bầu trực tiếp tổng thống và phó tổng thống. Thay vào đó, họ bỏ phiếu trong phạm vi từng bang để bầu lên một nhóm đại cử tri - những người cam kết sẽ bầu cho ứng cử viên tổng thống này hoặc ứng cử viên tổng thống kia. Số đại cử tri tương ứng với số thành viên Quốc hội ở bang đó, tức là bằng số hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ của bang đó. Để giành được chức tổng thống đòi hỏi ứng cử viên phải giành được đa số tuyệt đối trong tổng số 538 phiếu đại cử tri của 50 bang. (Con số đó bao gồm ba phiếu đại cử tri của Thủ đô Washington, D.C., đây không phải là một bang và không có đại diện bỏ phiếu tại Quốc hội).

Quy định đa số tuyệt đối khiến ứng cử viên của đảng thứ ba khó có thể giành được ngôi vị tổng thống vì phiếu đại cử tri của từng bang được phân bổ theo hình thức người thắng được tất (với hai ngoại lệ). Điều đó có nghĩa là, nếu một ứng cử viên giành được đa số phiếu phổ thông tại một bang - dù là đa số sít sao - thì sẽ giành được tất cả phiếu đại cử tri của bang đó. Tại Maine và Nebraska, người giành đa số phiếu phổ thông trên toàn bang giành được hai phiếu đại cử tri và người giành chiến thắng ở khu vực bầu cử Quốc hội được một phiếu đại cử tri. Giống với hệ thống khu vực bầu cử một đại diện, Cử tri đoàn khiến các đảng thứ ba bị bất lợi, ít có cơ hội giành được phiếu đại cử tri ở các bang, chứ nói gì đến việc giành thắng lợi ở đủ số bang để trở thành tổng thống.

Các nhà lập quốc đã xây dựng hệ thống Cử tri đoàn như một phần trong kế hoạch nhằm chia sẻ quyền lực giữa các bang và chính phủ trung ương. Theo hệ thống Cử tri đoàn, phiếu phổ thông bầu tổng thống không có ý nghĩa quyết định. Do vậy, lá phiếu đại cử tri giành được thông qua bầu cử tại các bang có thể cho một kết quả khác so với bầu cử phổ thông trên toàn quốc. Trên thực tế đã có 17 cuộc bầu cử tổng thống trong đó người thắng cử không giành được đa số phiếu phổ thông. Người đầu tiên trong số này là John Quincy Adams trong cuộc bầu cử năm 1824, và gần đây nhất là George W. Bush năm 2000. Một số người cho rằng hệ thống Cử tri đoàn đã lỗi thời, trong khi những người khác vẫn thích nó bởi vì nó đòi hỏi các ứng cử viên tổng thống phải tranh cử ở nhiều bang, chứ không chỉ ở những bang đông dân nhất.

Những rào cản khác đối với các đảng thứ ba

Theo thời gian, với xu hướng tiến tới xây dựng hệ thống hai đảng trên toàn quốc, và thực tế là Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa hiện đang kiểm soát bộ máy chính quyền, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi họ tạo ra những quy định bầu cử khác có lợi cho họ. Ví dụ, để một đảng mới có tên trên lá phiếu của một bang là một công việc khó khăn và rất tốn kém, vì nó đòi hỏi đơn kiến nghị với hàng vạn chữ ký và phải có khả năng giành được một tỉ lệ phiếu bầu tối thiểu trong các cuộc bầu cử sau đó để giữ được tên trên lá phiếu.

Quá trình chỉ định ứng cử viên đặc thù của Mỹ là một rào cản mang tính cấu trúc nữa đối với các đảng thứ ba. Trong số các nền dân chủ trên thế giới, Mỹ là trường hợp đặc biệt vì dựa chủ yếu vào các cuộc bầu cử sơ bộ để chỉ định ứng cử viên tổng thống, chạy đua vào các vị trí tại quốc hội và bang. Như đã đề cập, theo hệ thống chỉ định ứng cử viên này, các cử tri kiên định (luôn ủng hộ một đảng) trong cuộc bầu cử sơ bộ sẽ bầu chọn người của đảng mình tham gia tổng tuyển cử. ở hầu hết các nước, việc chỉ định ứng cử viên do các tổ chức đảng và lãnh đạo đảng thực hiện. Nhưng ở Mỹ hiện nay, cử tri là những người đưa ra quyết định cuối cùng ai sẽ là người đại diện cho Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ tham gia tranh cử.

Mặc dù hệ thống này khiến nội bộ các tổ chức đảng lỏng lẻo hơn so với ở hầu hết các nền dân chủ khác, nhưng quá trình chỉ định ứng cử viên giúp Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa chi phối nền chính trị bầu cử. Việc giành được đề cử của đảng thông qua bầu cử sơ bộ giúp các thành viên chống đối hoặc các ứng cử viên chủ trương cải cách có thể hợp tác trong nội bộ các đảng để tiến gần hơn tới tổng tuyển cử và tăng cơ hội chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử mà không phải tổ chức các đảng thứ ba. Do vậy, quá trình chỉ định ứng cử viên thông qua bầu cử sơ bộ có xu hướng làm cho hai chính đảng bất đồng và nhìn chung là ứng cử viên chống đối không phải vất vả để thành lập một đảng thứ ba. Hơn thế nữa, các đảng và các ứng cử viên của họ có xu hướng áp dụng các chiến lược bầu cử để tận dụng thông điệp của các ứng cử viên độc lập và của đảng thứ ba, những người có vẻ thu hút được sự ủng hộ rộng rãi.

Cơ sở ủng hộ rộng rãi

Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đều tìm kiếm sự ủng hộ rộng rãi và muốn thu hút sự ủng hộ của cử tri thuộc mọi thành phần kinh tế và các nhóm nhân khẩu học. Ngoại trừ cử tri người Mỹ gốc Phi và người Do Thái - đa số những cử tri này thường bỏ phiếu cho ứng cử viên tổng thổng của Đảng Dân chủ - cả hai đảng đều thu hút được sự ủng hộ đáng kể của hầu hết các nhóm kinh tế -xã hội lớn. Các đảng cũng biểu lộ sự linh hoạt về lập trường chính sách và nhìn chung không trung thành tuyệt đối với một ý thức hệ hay một tập hợp các mục tiêu chính sách nào cả. Thay vào đó, theo truyền thống, trước hết họ tập trung vào việc giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử và kiểm soát các nhánh chính quyền có bầu cử.

Với cơ sở kinh tế - xã hội ủng hộ lớn và nhu cầu hoạt động trong một xã hội nhìn chung là ôn hòa về ý thức hệ, nên các đảng ở Mỹ về cơ bản đều có lập trường chính sách ôn hòa. Như đã đề cập, về mặt chính sách, các đảng đều tỏ ra rất linh hoạt. Vì cách tiếp cận không cứng nhắc này nên Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ chấp nhận sự đa dạng lớn trong hàng ngũ của họ, và giúp họ có khả năng lôi kéo các đảng thứ ba và các phong trào phản đối khi các đảng và các phong trào này xuất hiện. Nhìn chung, Đảng Cộng hòa được xem là đảng bảo thủ vì nhấn mạnh các quyền sở hữu và tích lũy của cải cá nhân, còn Đảng Dân chủ được coi là thiên tả, ủng hộ các chính sách kinh tế và xã hội tự do. Nhưng trên thực tế, khi hai đảng nắm quyền, cả hai đều tỏ ra thực dụng.

Cấu trúc đảng phái phi tập trung hóa

Bên cạnh sự linh hoạt về ý thức hệ, đặc trưng của hai chính đảng ở Mỹ là cấu trúc phi tập trung hóa. Khi đã nắm quyền, tổng thống không thể trông đợi các thành viên của đảng mình tại Quốc hội sẽ là những người ủng hộ trung thành đối với các sáng kiến của tổng thống. Ngay cả các nhà lãnh đạo đảng tại Quốc hội cũng không thể mong chờ thành viên của đảng mình đồng loạt bỏ phiếu ủng hộ. Những cuộc họp kín của Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ (gồm các nghị sĩ đương nhiệm) rất độc lập và họ có thể theo đuổi các chính sách trái với chính sách của tổng thống, dù tổng thống là người cùng đảng. Tương tự, việc gây quỹ bầu cử của đảng cũng được tách riêng. Các ủy ban vận động tranh cử thượng nghị sĩ và Quốc hội của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa hoạt động độc lập với các ủy ban đảng toàn quốc, các ủy ban này chỉ tập trung vào cuộc bầu cử tổng thống. Bên cạnh đó, ngoại trừ việc thực hiện thẩm quyền đối với thủ tục bầu chọn đại biểu đi dự các đại hội toàn quốc đề cử ứng cử viên, các tổ chức đảng toàn quốc hiếm khi can thiệp vào công việc của đảng ở các bang.

Việc phi tập trung hóa về mặt tổ chức phản ánh hệ quả của hệ thống chia sẻ quyền lực theo quy định của Hiến pháp - phân quyền giữa các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp cả ở cấp bang và liên bang. Hệ thống quyền lực được phân tầng này có thể chỉ tạo ra động lực hạn chế giúp các nghị sĩ và chủ tịch đảng đoàn kết với nhau. Điều này là hoàn toàn đúng khi chúng ta bàn về mối quan hệ giữa các thành viên Quốc hội và chủ tịch đảng của họ hay mối quan hệ tương tự giữa các nghị sĩ bang và thống đốc của họ.

Hệ thống phân cấp chính quyền liên bang, bang và địa phương là một động cơ nữa thúc đẩy sự phi tập trung hóa của các đảng vì nó tạo ra hàng nghìn khu vực bầu cử cho các công chức ở cấp liên bang, bang và địa phương. Như đã đề cập ở trên, việc tổ chức các cuộc bầu cử sơ bộ để chỉ định ứng cử viên cũng làm suy yếu các tổ chức đảng vì không cho các đảng có khả năng kiểm soát việc bầu chọn ứng cử viên của đảng. Do vậy, cá nhân các ứng cử viên được khuyến khích xây dựng các tổ chức vận động tranh cử và lực lượng ủng hộ của riêng họ, trước hết là giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử sơ bộ và sau đó là chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử.

Lo ngại của công chúng

Mặc dù trong hệ thống chính trị Mỹ có biểu hiện rất rõ và lâu dài về tinh thần đảng phái có tổ chức, nhưng trong nền văn hóa công dân Mỹ vẫn còn một thành tố thâm căn cố đế đó là sự bất tín ngày càng tăng đối với các đảng phái chính trị. Việc xây dựng và phát triển hệ thống bầu cử sơ bộ chỉ định ứng cử viên của bang và Quốc hội là bằng chứng về tâm lý theo chủ nghĩa dân túy, thậm chí là tâm lý chống đảng phái trong công chúng. Người Mỹ hiện đại hoài nghi việc lãnh đạo các tổ chức đảng của họ thực thi quyền lực lớn đối với chính phủ của họ. Các cuộc thăm dò dư luận liên tục cho thấy phần lớn dân chúng cho rằng đôi khi chính các đảng làm phức tạp thêm vấn đề và cho rằng sẽ tốt hơn nếu không có dấu hiệu của đảng nào trên lá phiếu cả.

Vì vậy, các đảng phải đối phó với vấn đề là một số lượng lớn cử tri không còn mặn mà lắm với việc xác định mình thuộc đảng nào. Một biểu hiện của thực tế này là tỉ lệ tuồn phiếu. Ví dụ, một cử tri có thể bỏ phiếu cho ứng cử viên tổng thống của đảng mình và bỏ phiếu cho ứng cử viên của đảng kia tại khu vực bầu cử Quốc hội của mình. Vì vậy, trong kỷ nguyên chính quyền phân cấp, các tổng thống thường phải cố gắng điều hành mà không được đa số ủng hộ trong một hoặc cả hai viện tại Quốc hội. Việc hai đảng thay nhau kiểm soát nhánh hành pháp và lập pháp là điều bình thường của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền ở 50 bang. Một vài nhà quan sát cho rằng thậm chí cử tri thích quy định này vì nó cản trở những đề xuất lớn của chính quyền có thể khiến cử tri thấy phiền phức.

Các ứng cử viên độc lập và của các đảng thứ ba

Bất chấp các trở ngại nêu trên, sự xuất hiện của các ứng cử viên độc lập và các đảng thứ ba là một đặc điểm có tính định kỳ trong nền chính trị Mỹ. Họ thường đưa ra những vấn đề xã hội mà các chính đảng không giải quyết được để công chúng bàn luận và đưa các vấn đề đó vào chương trình nghị sự của chính phủ. Tuy nhiên, hầu hết các đảng thứ ba thường chỉ phát triển trong một cuộc bầu cử và sau đó tan rã, hoặc bị sát nhập vào một trong hai chính đảng. Kể từ năm 1850, duy nhất một đảng mới là Đảng Cộng hòa hình thành và giành được vị thế của một chính đảng. ở thời điểm đó có một vấn đề đạo lý bức xúc khiến đất nước chia rẽ, đó là tình trạng nô lệ. Vấn đề này là cơ sở để lựa chọn ứng cử viên và huy động cử tri.

Bằng chứng cho thấy các đảng thứ ba có thể tác động mạnh đến kết quả bầu cử. Ví dụ, việc Theodore Roosevelt - ứng cử viên của đảng thứ ba - ra tranh cử năm 1912 đã khiến phân hóa phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa và cho phép Woodrow Wilson là người của Đảng Dân chủ thắng cử khi chưa giành đủ đa số phiếu phổ thông. Năm 1992, ứng cử viên độc lập H.Ross Perot đã thu hút được sự ủng hộ của các cử tri mà từ những năm 1980 chủ yếu bầu cho Đảng Cộng hòa, khiến cho tổng thống đương nhiệm của Đảng Cộng hòa Geogre H.W. Bush thất bại. Trong cuộc chạy đua cực kỳ sít sao năm 2000 giữa Geogre W. Bush của Đảng Cộng hòa và Al Gore của Đảng Dân chủ, nếu ứng cử viên của Đảng Xanh Ralph Nader không giành được phiếu tại bang Florida thì Al Gore có thể đã giành được phiếu đại cử tri của bang này và trở thành tổng thống.

Các cuộc điều tra dư luận kể từ năm 1990 liên tục cho thấy tỉ lệ ủng hộ đảng thứ ba rất cao. Trong thời gian trước khi diễn ra cuộc bầu cử năm 2000, một cuộc thăm dò dư luận của Viện Gallup cho thấy 67% người Mỹ ủng hộ một đảng thứ ba mạnh có các ứng cử viên chạy đua tranh cử tổng thống, chạy đua vào Quốc hội và bang cùng với các ứng cử viên của Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ. Nhờ sự ủng hộ đó, cộng với các khoản chi tiêu hào phóng cho vận động tranh cử, đã giúp tỷ phú bang Texas Ross Perot giành được 19% phiếu phổ thông trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992, tỷ lệ cao nhất dành cho một ứng cử viên không thuộc các chính đảng kể từ thời Theodore Roosevelt (Đảng Tiến bộ) giành được 27% năm 1912.

Chỉ định ứng cử viên tổng thống


Hiến pháp Mỹ không quy định các nguyên tắc chỉ định ứng cử viên tổng thống của các đảng. Vì như đã đề cập ở trên, không có đảng phái chính trị nào tồn tại ở thời điểm Hiến pháp được soạn thảo và phê chuẩn vào cuối những năm 1700, và những người sáng lập nền Cộng hòa không quan tâm đến việc quy định thủ tục đối với các đảng phái chính trị.

Đầu năm 1796, các nghị sĩ Mỹ - những người xác nhận thuộc về một trong các đảng phái chính trị thời điểm đó - đã nhóm họp không chính thức để nhất trí đề cử ứng viên tổng thống và phó tổng thống của đảng họ. Hệ thống bầu chọn ứng cử viên này, còn được gọi là cuộc họp kín của nhà Vua, được áp dụng trong suốt 30 năm. Hệ thống này bị phá vỡ năm 1824, hệ quả của việc phi tập trung hóa quyền lực chính trị sau khi nước Mỹ mở rộng về phía Tây.

Cuối cùng, đại hội chỉ định ứng cử viên toàn quốc đã thay thế các cuộc họp kín của nhà Vua để bầu ra ứng cử viên của các đảng. Năm 1831, Đảng Anti-Mason, một đảng nhỏ đã họp tại một quán rượu ở thành phố Baltimore, bang Maryland để chọn ra các ứng cử viên và soạn thảo cương lĩnh chính trị để vận động tranh cử. Năm sau, những người của Đảng Dân chủ cũng họp tại quán rượu đó để bầu chọn ứng cử viên của họ. Kể từ đó, các chính đảng và hầu hết các đảng đều tổ chức các đại hội toàn quốc chỉ định ứng cử viên với sự tham dự của các đại biểu của bang, để chọn ra các ứng cử viên tổng thống và phó tổng thống và để nhất trí về các quan điểm chính sách.

Các sự kiện trên truyền hình

Trong suốt thế kỷ XIX và thế kỷ XX, các đại hội chỉ định ứng cử viên tổng thống, mặc dù có sự tham dự của rất nhiều đảng viên trung thành, nhưng thường do lãnh đạo của đảng tại các bang kiểm soát. Các ông lớn chính trị này dùng ảnh hưởng để chọn đại biểu đi dự đại hội của bang và để đảm bảo rằng các đại biểu này bỏ phiếu chính xác tại đại hội đảng toàn quốc. Đối thủ của các lãnh đạo đảng yêu cầu cải cách để cử tri bầu chọn đại biểu dự đại hội đảng. Chính vì vậy các cuộc bầu cử sơ bộ ra đời để thực hiện nhiệm vụ này. Năm 1916, hơn một nửa số bang đã tổ chức các cuộc bầu cử sơ bộ.

Tuy nhiên phong trào này đã chết yểu. Sau khi Chiến tranh Thế giới Thứ nhất kết thúc, các lãnh đạo đảng ý thức được rằng các cuộc bầu cử sơ bộ đe dọa quyền lực của họ, nên đã thuyết phục các cơ quan lập pháp bang bãi bỏ các cuộc bầu cử này vì lý do chúng quá tốn kém và ít người tham gia. Đến năm 1936, chỉ còn khoảng chục bang tiếp tục tổ chức các cuộc bầu cử sơ bộ.

Tuy nhiên, áp lực dân chủ hóa lại gia tăng sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Lần đầu tiên truyền hình mang đến một phương tiện giúp người dân có thể xem, nghe về các chiến dịch vận động tranh cử chính trị ngay trong phòng khách của họ. Các ứng cử viên tổng thống nhiều triển vọng có thể xuất hiện trên truyền hình để thể hiện sức lôi cuốn của họ. Những thập kỷ sau đó đã đem lại những cải cách dân chủ hóa nhằm mở rộng thành phần tham gia các đại hội chỉ định ứng cử viên của đảng.

Kết quả là, hiện nay hầu hết các bang đều tổ chức bầu cử sơ bộ. Tùy vào luật pháp của từng bang, cử tri trong cuộc bầu cử sơ bộ có thể bỏ phiếu bầu ứng cử viên tổng thống của một đảng và bỏ phiếu bầu một danh sách các đại biểu cam kết, có thể bỏ phiếu cho ứng cử viên tổng thống, hoặc có thể gián tiếp bỏ phiếu cho một ứng cử viên trong một cuộc họp kín thông qua bầu chọn đại biểu dự đại hội đảng, những người cam kết ủng hộ ứng cử viên này hoặc ứng cử viên kia. Theo hệ thống họp kín, những người ủng hộ cho một đảng sống tại một khu vực địa lý nhỏ - một khu vực bầu cử địa phương - sẽ nhóm lại với nhau để bỏ phiếu bầu các đại biểu, những người này cam kết sẽ ủng hộ các ứng cử viên tổng thống cụ thể. Đến lượt họ, các đại biểu này sẽ đại diện cho khu vực của mình tại đại hội đề cử của hạt để tiếp tục chọn ra các đại biểu tham gia đại hội đề cử của bang và khu vực bầu cử Quốc hội. Những đại biểu dự các đại hội cuối cùng sẽ bầu ra các đại biểu đại diện cho bang tại các đại hội đề cử toàn quốc. Mặc dù quá trình này diễn ra trong vài tháng, nhưng các ứng cử viên được ưa thích về cơ bản thường được quyết định ngay tại vòng bỏ phiếu đầu tiên.

Số lượng đại biểu thực sự của từng bang tại các đại hội chỉ định ứng cử viên toàn quốc được tính toán trên cơ sở quy định của từng đảng, chẳng hạn như quy mô dân số bang, sự ủng hộ trước đây của bang đối với ứng cử viên của đảng, số quan chức được bầu lên và các lãnh đạo đảng hiện đang tại vị ở bang đó. Công thức phân bổ đại biểu mà Đảng Dân chủ sử dụng dẫn đến số lượng đại biểu tham gia đại hội toàn quốc của đảng này nhiều gấp đôi so với số lượng đại biểu của Đảng Cộng hòa.

Nhờ vào các xu hướng cải cách trên từ Chiến tranh Thế giới Thứ hai nên đã xuất hiện hai trào lưu chính. Trào lưu thứ nhất là ngày càng có nhiều bang tổ chức bầu cử sơ bộ và họp kín sớm hơn, hướng tới giai đoạn quyết định của mùa chỉ định ứng cử viên. Trào lưu này gọi là bầu cử sớm. Việc trở thành bang tổ chức bầu cử sơ bộ hoặc tiến hành họp kín sớm có thể giúp cử tri của bang này có nhiều ảnh hưởng hơn đối với vòng bầu chọn ứng cử viên cuối cùng. Thêm vào đó, tổ chức bầu cử sớm có thể khuyến khích các ứng cử viên sớm giải quyết nhu cầu và lợi ích của bang đó, và có thể buộc các ứng cử viên phải tổ chức vận động trong phạm vi bang, chi tiền cho nhân viên, truyền thông và khách sạn để cố gắng giành được chiến thắng quyết định về mặt tâm lý ngay từ đầu trong tiến trình đề cử của đảng.

Ngoài ra, ở một số khu vực, các bang còn phối hợp với nhau để tổ chức các cuộc bầu cử sơ bộ khu vực bằng cách tổ chức các cuộc bầu cử sơ bộ và họp kín vào cùng một ngày để tối đa hóa ảnh hưởng của khu vực đó.

Cả hai trào lưu trên đều buộc các ứng cử viên phải bắt đầu chiến dịch vận động tranh cử sớm hơn để giành được phần thắng tại các bang tổ chức bầu cử sớm. Các ứng cử viên cũng phải phụ thuộc rất nhiều vào các phương tiện truyền thông đại chúng - phát thanh, truyền hình, Internet và giành được sự ủng hộ của lãnh đạo đảng tại bang để giúp họ tiếp xúc cử tri ở những bang có thể tổ chức bầu cử sơ bộ cùng ngày.

Một hệ quả của những đổi thay trong quá trình chỉ định ứng cử viên tổng thống là sự suy giảm tầm quan trọng đại hội chỉ định ứng cử viên toàn quốc thường rất gay cấn và được truyền hình trực tiếp. Ngày nay, ứng cử viên tổng thống được cử tri quyết định khá sớm trong quá trình bầu cử sơ bộ. Đến lượt mình ứng cử viên cuối cùng đó thậm chí còn có thể giới thiệu ứng cử viên phó tổng thống của mình trước khi diễn ra đại hội (các ứng cử viên phó tổng thống không độc lập chạy đua vào vị trí đó trong các cuộc bầu cử sơ bộ, mà do ứng cử viên tổng thống của đảng đó lựa chọn).

Do vậy, quá trình chỉ định ứng cử viên tổng thống tiếp tục phát triển. Trong những thập kỷ gần đây, thành phần tham gia quá trình này đã được mở rộng, tăng cường tính đại diện và quan hệ giữa cử tri và các ứng cử viên. Hiện nay, quá trình này là một lợi thế đối với các ứng cử viên nổi tiếng hơn, có thể quyên góp được nhiều tiền hơn và có các tổ chức vận động tranh cử hiệu quả nhất, đồng thời có thể thu hút được nhiều nhất cảm tình của cử tri ngay từ đầu mùa bầu cử sơ bộ.

Kết nối Internet

Các ứng cử viên và người ủng hộ nhanh chóng sử dụng Internet làm công cụ vận động tranh cử. Internet đã chứng tỏ là một công cụ hữu hiệu và hiệu quả để gây quỹ từ những người ủng hộ tiềm năng và quảng bá các chính sách và kinh nghiệm của các ứng cử viên. Hiện nay, các tổ chức vận động tranh cử vẫn duy trì blog của họ. Những người viết nhật ký mạng trên các trang web này là những nhân viên vận động tranh cử được trả lương để viết về các tuyên bố và hoạt động của các ứng cử viên. Trong khi đó, hàng nghìn người viết nhật ký mạng độc lập lại viết bình luận ủng hộ các ứng cử viên mà họ ưa thích và tham gia tranh luận với những người viết blog khác không ủng hộ những ứng cử viên đó.

Việc đưa băng hình video lên những trang như YouTube tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức đối với công việc vận động chính trị. Các ứng cử viên tận dụng công nghệ để tạo ra băng hình về bản thân, đôi khi rất hài hước. Có những lúc, cử chỉ và lời nói bất cẩn của các ứng cử viên trước cử tọa còn bị ghi lại. Và những sơ xuất này của họ được phát đi phát lại hàng nghìn lần trên Internet hoặc trên truyền hình.

Bầu cử quốc hội


Các cuộc bầu cử Quốc hội Hoa Kỳ cũng mang tính cạnh tranh gay gắt và có vai trò quan trọng như các cuộc bầu cử tổng thống. Sở dĩ có điều đó là do vai trò trung tâm của Quốc hội trong việc lập pháp ở nước này. 

Không giống như hệ thống nghị viện - nơi mà thủ tướng được bầu lên từ nghị viện, như đã nói ở trên, hệ thống bầu cử ở Hoa Kỳ phân tách rõ rệt cơ quan lập pháp và tổng thống. Tổng thống và các nhà lập pháp được bầu lên thông qua các cuộc bầu cử riêng rẽ. Mặc dù tổng thống đương nhiệm có thể đề xuất luật lên Quốc hội, song những đạo luật này phải được soạn thảo ở Quốc hội, do các đồng minh thuộc đảng của tổng thống soạn thảo, và phải được Quốc hội thông qua trước khi tổng thống ký lệnh ban hành. Thượng viện và Hạ viện có vai trò hoàn toàn độc lập về mặt pháp lý và chính trị đối với ý chí của tổng thống.

Trong hệ thống chính trị của Hoa Kỳ, các quy tắc đảng trong Quốc hội dường như ít được tuân thủ chặt chẽ hơn so với trong các hệ thống nghị viện ở các quốc gia khác. Các nghị sĩ Quốc hội có thể dễ dàng bỏ phiếu cho những chính sách mà họ cho là ưu việt nhất, kể cả những chính sách mà họ cho là có lợi nhất đối với mục đích tái đắc cử của họ. Kết quả là, các thủ lĩnh trong Quốc hội phải tập hợp được liên minh thắng thế hơn là nhờ cậy vào sự ủng hộ tự động từ những đảng phái có kỷ luật nghiêm ngặt. Điều này khiến cho việc đạt được chiến thắng về mặt lập pháp ở Quốc hội là rất khó khăn. Cũng vì vậy mà các cuộc bầu cử Quốc hội có vai trò quan trọng đối với đất nước, vì Quốc hội là một thể chế đầy quyền lực và khó dự báo trước; các nghị sĩ Quốc hội cũng vậy. 

Sự khác biệt giữa Thượng viện và Hạ viện
Hạ viện và Thượng viện có quyền lực gần như ngang nhau,nhưng cách thức tuyển cử thì có một vài điểm khác nhau. Những người lập quốc mong muốn rằng các thành viên của Hạ viện phải là những người gần gũi với dân chúng, phản ánh mong muốn và nguyện vọng của dân chúng. Vì vậy, họ đã xâydựng nên mô hình Hạ viện Hoa Kỳ với quy mô tương đối lớn - để có thể phối hợp nhiều thành viên từ các địa hạt lập pháp quy mô nhỏ - và tần suất tuyển cử ngắn (hai năm một lần). Ban đầu, nhiệm kỳ hai năm còn bị một số người coi là quá dài. Trong thời kỳ phương tiện giao thông đường bộ ở Mỹ chủ yếu là xe ngựa, thì nhiệm kỳ hai năm ở Washington có thể khiến cho một đại biểu Hạ viện bị chia cắt với cử tri của mình trong suốt hai năm đó. Ngày nay, mối quan ngại lại là ở chỗ nhiệm kỳ hai năm buộc đại biểu Hạ viện phải công du liên tục tới địa hạt của mình vào tất cả hoặc hầu hết các kỳ nghỉ cuối tuần để củng cố sự ủng hộ chính trị từ phía cử tri. 

Mỗi chiếc ghế đại biểu Hạ viện đại diện cho duy nhất một khu vực cử tri có tính địa lý, và như đã nói ở trên, tất cả các đại biểu Hạ viện đều được lựa chọn theo quy tắc đa số phiếu, với tư cách là đại diện duy nhất của địa hạt đó. Mỗi bang trong số 50 bang ở Hoa Kỳ được đảm bảo có ít nhất một ghế đại biểu Hạ viện, số ghế đại biểu Hạ viện được chia cho các bang dựa trên tiêu chí phù hợp với lượng dân số của bang đó. Ví dụ, như bang Alaska chỉ có rất ít dân và vì vậy, bang này chỉ chiếm một ghế trong Hạ viện. California là một trong những bang đông dân nhất, vì vậy, bang này chiếm 53 ghế trong Hạ viện. Theo thống kê có được từ các cuộc điều tra dân số diễn ra 10 năm một lần, số ghế cho mỗi bang cũng được tính toán lại để phù hợp với những thay đổi về dân số của các bang trong 10 năm đó, và cơ quan lập pháp liên bang cũng quy định lại các đường biên giới của các địa hạt bầu cử Quốc hội trong từng bang để phản ánh được những thay đổi về số ghế đại biểu Hạ viện hoặc những thay đổi về dân số của bang. 
Thượng viện Hoa Kỳ được xây dựng để các thượng nghị sĩ có thể đại diện cho những khu vực cử tri lớn hơn - toàn bộ bang - và nó tạo cơ hội đại diện ngang bằng cho mỗi bang trong thể chế này, bất kể dân số của bang đó là lớn hay nhỏ. Như vậy, trong Thượng viện, các bang nhỏ cũng có tầm ảnh hưởng (có hai thượng nghị sĩ) tương tự như các bang lớn. 

Ban đầu, các thượng nghị sĩ được lựa chọn bởi cơ quan lập pháp liên bang. Mãi cho đến khi Hiến pháp sửa đổi lần thứ mười bảy được ban hành vào năm 1913 thì các thượng nghị sĩ mới do cử tri của bang đó bầu phiếu trực tiếp. Tất cả các bang đều có hai thượng nghị sĩ được tuyển cử với nhiệm kỳ 6 năm, với một phần ba số ghế đại biểu trong Thượng viện được bầu cử lại hai năm một lần. Một thượng nghị sĩ đắc cử khi chiếm đa số phiếu bầu của Cử tri đoàn của bang. 
Trung thành với Đảng chính trị hay với cá nhân 

Trước kia, các cuộc bầu cử Quốc hội có xu hướng tập trung vào đảng phái, vì nhiều cử tri luôn kiên định ủng hộ một đảng phái chính trị nào đó, và họ có xu hướng bầu đại biểu Quốc hội theo tiêu chí đại biểu đó thuộc đảng chính trị nào. Các phẩm chất và năng lực cá nhân của đại biểu ra tranh cử thường chỉ mang tính tham khảo và bổ sung cho quyết định bỏ phiếu của cử tri. Trong các thập kỷ gần đây, quan điểm và phẩm chất cá nhân của đại biểu đứng ra tranh cử đã được cử tri chú trọng nhiều hơn so với việc ứng viên đó thuộc đảng chính trị nào. Điều này phần nào đã làm giảm tầm quan trọng của truyền thống kiên định với đảng chính trị đã tồn tại trước kia. 

Thật vậy, từ những năm 1960, các cuộc tuyển cử quốc gia ngày càng có xu hướng lấy cá nhân ứng viên làm trọng tâm. Sự bùng nổ của truyền thông và Internet, tầm quan trọng của các chiến dịch tranh cử và kêu gọi tài trợ cho chiến dịch tranh cử, các cuộc thăm dò dư luận và các biểu hiện khác của hình thức tranh cử hiện đại đã làm cho cử tri có nhận thức sâu sắc hơn về vai trò cá nhân của ứng cử viên. Kết quả là, cử tri đã bắt đầu cân nhắc về điểm mạnh và điểm yếu của ứng viên bên cạnh lòng trung thành của họ đối với đảng chính trị trong quá trình quyết định họ sẽ bỏ phiếu cho ứng viên nào. Việc triển khai giáo dục phổ thông trên diện rộng vào đầu thế kỷ XX và giáo dục đại học sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai cũng đã khiến các cử tri tin tưởng hơn vào sự đánh giá của mình và họ ít dựa vào tiếng tăm của đảng chính trị hơn trong việc quyết định bỏ phiếu.

Trong bối cảnh các cuộc tuyển cử lấy ứng viên làm trọng tâm này, các thành viên đương nhiệm của Quốc hội luôn làm việc có kết quả tốt, với tỷ lệ tái đắc cử là trên 90%. Có được điều này một phần là do các tin tức truyền thông tốt đẹp về hoạt động của Quốc hội, và đặc biệt là những tin tức liên quan đến mỗi cá nhân đại biểu Quốc hội được truyền thông địa phương đưa ra tại các bang và các địa hạt bầu cử Quốc hội của cá nhân đại biểu đó. Với cơ hội bày tỏ nhìn chung là thuận lợi trước giới truyền thông, với việc tiếp xúc hàng ngày với các vấn đề chính sách công - với những cá nhân và các nhóm đang cố gắng gây tác động đối với việc ra chính sách - các đại biểu Quốc hội đương nhiệm cũng đã tận dụng cơ hội để tìm cách làm tăng nguồn tài chính tài trợ cho chiến dịch tái tranh cử của họ. Vì những lý do này và những lý do khác nữa, các đại biểu Quốc hội đương nhiệm đang chạy đua để tái tranh cử thường có nhiều cơ hội chiến thắng, bất kể họ thuộc đảng phái chính trị nào.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét